Tại sao chè tân cương ngon vị phải tiền chát hậu ngọt

Đúng là trà móc câu! Tôi chợt thốt lên làm ra vẻ sành điệu, thì bất ngờ có một bác ngồi bên bờ sông nói lại rằng, đây là thứ trà mốc cau sau khi đã làm hương, đánh mốc cho chè móc câu, tạo nên một thứ chè có màu đốm trắng như hoa cau non. Thế mới là trà đặc sản Tân Cương. Thật rắc rối, tôi cười trừ rồi hỏi nó khác nhau thế nào, thế là tôi được nghe bao nhiêu chuyện từ người nông dân trồng chè này. Mấy người trên thuyền cũng xúm quanh ấm trà...

Tân Cương du ký 1

Giọng ông trầm ấm, kể từ khi chè thái nguyên ở vùng này sản xuất theo tiêu chuẩn VIETGAP, nghĩa là chè sạch và áp dụng kỹ thuật trồng trọt hiện đại, chất lượng chè Tân Cương lại càng được ưa chuộng trên thị trường quốc tế. Nhưng ông nhấn mạnh, có mỗi chuyện hái chè là cái anh máy móc chịu chết, vì không thể tách ra được theo cái gọi là một tôm hai lá. Ông cười, thế là cả cái vùng chè rộng lớn này vẫn phải trông vào bàn tay khéo léo của các cô, các bà. Cứ phải một tôm hai lá mà chơi, mà ở cành non quá cũng không được, nát ngay. Vậy phải tinh con mắt, mơn mởn đấy, nhưng phải tựa cánh hạc cứng cáp...

Khi du khách đến thăm Thái Nguyên, hãy thưởng thức chè dù chỉ một lần, cái cảm giác ngây ngất, được đắm mình trong cái ngào ngạt, thơm ngát, nhẹ nhàng nhưng lan tỏa khắp da thịt, thì lúc đó, bạn đã đến Thái Nguyên rồi đấy! Nghệ thuật uống chè trở thành một “đạo”, và là một thú vui hết sức tao nhã và đôi khi hết sức cầu kì. Có thể nói rằng văn hóa uống trà ở mỗi nơi là mỗi khác, mỗi vùng miền lại có những văn hóa thưởng trà rất riêng, nhưng chúng ta không thể quên đi, bỏ qua văn hóa thưởng trà của người Thái Nguyên, bởi đây là cái nôi đã hình thành nên lịch sử của những cây chè, khi du nhập từ nước ngoài về, cũng từ đó văn hóa uống trà của người Thái Nguyên hình thành và tạo nên một nét văn hóa mới trong nghệ thuật uống của người Việt nói chung.

Với người Thái nguyên uống là một nghệ thuật và là một nét văn hóa cần phải được quan tâm, họ ý tứ trong từng cử chỉ và dáng điệu, từ cách tráng ấm, cho trà vào ấm, rót trà mời khách, rồi đến cách cầm chén trà, cách uống trà, điệu bộ khi uống cũng phải tươi tắn, thoái mái để có thể cảm nhận được hết cái hương vị ngọt ngào của chén trà. Tất cả những cái đó đã tạo nên một nét văn hóa đặc trưng riêng và làm nên bản sắc văn hóa Trà Thái nói riêng và văn hóa che thai nguyen nói chung.

Nét văn hóa đặc trưng trong cách thưởng thức Trà của người Thái Nguyên

Uống trà là cả một nghệ thuật, không phải ai cũng đều biết được nghệ thuật uống trà này. Các chân trà nhân Thái Nguyên ngàn xưa và ngày nay vẫn rất chú ý đến nghệ thuật thưởng thức trà với nhiều loại trà cụ cần thiết, để làm sao cho người uống cũng có thể cảm nhận và thể nghiệm về trà giống như các thiền sư, đây cũng là một nét văn hóa rất riêng trong cách thưởng thức trà của người Thái Nguyên.

Dùng thìa gỗ hoặc tre múc trà cho vào ấm được gọi là Ngọc diệp hồi cung. Ðể có được chén trà ngon thì bình trà và tách uống trà phải được làm ấm lên bằng nước sôi. Ðiều này có dụng ý là giữ cho nước trong bình pha luôn luôn có độ nóng cao nhất. Trà khô bỏ vào bình loại đất nung nhỏ cao cỡ 1/3 bình. Trà cụ dùng để xúc trà, lấy bã trà đều bằng tre khô hoặc gỗ thơm. Khi châm nước lần một gọi là Cao sơn trường thuỷ, dùng vòi nước sôi mắt cua giội từ trên cao xuống nhằm tạo ra một lực làm tan bụi bẩn trong trà. Người ta châm một ít nước sôi vào bình trà rồi chắt ngay ra, đổ đi nước đầu này để loại hết bụi bẩn trong trà và trà khô trong bình kịp thấm không nổi lềnh bềnh nữa.

Trà nước hai là lần đổ nước thứ hai vào ấm hạ sơn nhập thuỷ, đổ nước cao tràn miệng bình để khi đậy nắp lại, bọt bẩn trào ra hết, rồi dội nước sôi lên nắp, cũng nhằm giữ nhiệt độ cao nhất cho ấm trà. Nước hai chính là nước trà chuẩn nhất được tạo ra trong vòng 60-90 giây này thực sự tạo ra mùi vị thơm tho tuyệt diệu từ các cánh trà. Khi dùng trà, phải rót sao cho các chén trà đều có nồng độ như nhau bằng cách kê khít các miệng chén lại và đưa vòi ấm quay vòng đều các chén. Cách phổ biến trong truyền thống là rót ra chén Tướng (chén tống) rồi chia đều ra các chén quân. Cách này ngày nay ít dùng vì phần làm nguội trà, phần hơi mất thời gian.

Dâng chén trà theo đúng cách là ngón giữa phải đỡ lấy đáy chén, ngón trỏ và ngón cái đỡ miệng chén gọi là Tam long giá ngọc, người dâng trà và người nhận trà đều phải cung kính cúi đầu. Trước khi uống đưa chén sang tay trái, mắt nhìn theo, sau đó đưa sang phải. Cầm chén uống trà phải quay lòng bàn tay vào trong, dâng chén lên sát mũi để thưởng thức hương trà trước, sau đó tay che miệng hớp một hớp nhỏ – Tay áo các quan lại phong kiến thường rất rộng cũng một phần vì lẽ dùng che miệng khi uống trà là vậy – Che miệng khi ăn, uống, cười, nói trong chèo, tuồng, trong đời sống người Việt xưa chính là một hành vi văn hoá. Người uống cũng phải chậm rãi mím miệng nuốt khẽ cho hương trà thoát ra đằng mũi và đồng thời đọng trong cổ họng, nuốt nước bọt tiếp lần một, lần hai, lần ba để cảm nhận.

 Nhiệt độ: thường sấy chè ở 800 C, nếu sấy ở nhiệt độ cao hơn 800 C thì chè mất đi nhiều hương thơm và màu sáng, nếu sấy thấp hơn 800 C thì quá trình sấy kéo dài, các enzym trong chè không được đình chỉ kịp thời, chè dễ bị len men quá mức.

- Tốc độ không khí trong máy sấy chè: tốc độ không khí nóng trong máy sấy chè thường khống chế ở 0,5 m/s, nếu khống chế nhỏ hơn tốc độ này thì thời gian sấy kéo dài và nếu khống chế ở khoảng 0,6 m/s thì chè vụn sẽ bị cuốn theo.

- Độ dày của lớp chè rải trên băng chuyền máy sấy: thực nghiệm cho thấy nếu tốc độ không khí nóng trong máy sấy chè < 0,5 m/s thì độ dày của lớp chè rải trên băng chuyền không ảnh hưởng đến chất lượng chè sấy được. Do đó, nếu ta khống chế tốc độ không khí bằng 0,5 m/s và sấy hai lần thì độ dày của các lớp chè rải trên băng chuyền là:

2,5 cm; Sấy lần 1: 2

5 cm; Sấy lần 2: 3

Ngoài các phần chè non già khác nhau thì độ dày của lớp chè rải trên băng chuyền cũng khác nhau, thường thì độ dày chè non sẽ nhỏ chè già.

Để biết thêm thông tin chi tiết quý khách vui lòng truy cập website : http://chethaixuatkhau.com/