Giọt chè thái nguyên như những giọt xuân
- Chuyên mục: Chè Thái Nguyên
- Viết bởi Admin
-
Một số đại biểu cho rằng chất lượng Chè Thái Nguyên búp tươi của một số tỉnh trong nước chưa đáp ứng được yêu cầu để tạo được sản phẩm Chè Thái Nguyên chất lượng cao, đủ năng lực cạnh tranh và hội nhập, tiến độ trồng mới và cải tạo thay thế diện tích Chè Thái Nguyên cũ bằng các giống mới còn chậm, chất lượng một số nương Chè Thái Nguyên chưa đạt yêu cầu kỹ thuật đề ra, nhiều cơ sở chế biến Chè Thái Nguyên chưa được đầu tư theo hướng hiện đại, việc xây dựng thương hiệu cho sản phẩm Chè Thái Nguyên còn hạn chế...
Cả trăm năm nay, chè Thái Nguyên đã khắc họa trong tâm trí người dân đất Việt về một thứ ẩm thực gần gụi với cuộc sống mỗi gia đình, đó là thú thưởng trà. Nhưng phàm khi pha uống có thói quen tráng trà, song như thế là phụ công người đổ mồ hôi bên lửa củi để làm ra từng ấm trà ngon. “Làm thế cho sạch”, nói vậy là chưa hiểu nhiều lắm về trà. Vì đã là trà móc câu hay trà bồm cũng đều được thu hái ở tầng ngọn, cả đêm trước búp, lá hứng sương trời để ngày sau quang hợp ánh sáng sản sinh ra chất ta nanh... khi uống thấy chát đắng, ngay sau đó cảm nhận được vị ngọt lan toả từ cuống dạ dày dốc ngược lại bờ môi. Nhìn chén trà long lanh tựa mắt nai, lòng cảm nhận như giọt mùa xuân còn đọng lại, thầm tự hào quê tôi có trà ngon.
Đêm thanh, gió vắng bên hiên nhà ngồi nhâm nhi chén trà, kẻ phàm phu cũng chợt thấy lòng thanh tao, thấy những bon chen đời thường hoá thành vô nghĩa. Tất cả rồi cũng trở về cát bụi, lại luân hồi với cuộc mưu sinh, như từng lọn búp xanh non trên ngọn cây chè, lặp lại sức sống mơn mởn giữa mùa nắng cháy hay mùa giá buốt của Đông sang. Vì lẽ ấy mà bao đời nay bậc tao nhân quân tử đã lấy trà làm tri âm tri kỷ. Riêng với người Thái Nguyên, dù có cách uống "ực khà" cả cốc lấy no của bác nông dân bên ruộng cày, hay kiểu nhẩn nha chiêu từng ngụm nhỏ của thi nhân, thì cũng là bạn của trà rồi. Bởi vùng đất trung du này trời, đất ban tặng cho cư dân đặc ân có thứ trà ngon, nổi tiếng đến mức trên dọc đường xuyên Việt, đâu cũng thấy có người bày bán chè Thái Nguyên. Nhất là thời kinh tế quốc tế hội nhập, chè Thái Nguyên ngon có nhiều hơn những cơ hội toả hương đến các châu lục trên thế giới. Nhiều dòng họ thuộc vùng chè Tân Cương (T.P Thái Nguyên), Trại Cài, xã Minh Lập (Đồng Hỷ) còn có cách giao bán chè qua đường hàng không, đường biển cho người sành trà bên nước Pháp, nước Mỹ thu về ngoại tệ.
Cũng trà ấy, dân mỗi nước lại có cách uống khác nhau. Người Nga thuộc xứ tuyết rơi dùng ấm Samavar, loại ấm luôn được ủ nóng có chứa hơn 1 lít nước lúc nào cũng đầy, bên cạnh còn có khay đựng những viên đường. Ở Nhật Bản có Trà đạo của Okakura Kakuro. ẩm trà của người Nhật trở thành một triết thuyết của thiền giới, một hình thức huấn luyện các trà đồ hướng về nẻo thiền lý, đi tìm chân, thiện, mỹ trong thế giới tĩnh tại và tự nhiên của tâm hồn. Bên Trung Quốc có Trà kinh, nghệ thuật uống trà được các bậc tiền bối chép lại trong hàng nghìn cuốn, trưng bày thành bảo tàng. ở đất nước hơn tỉ dân này người ta tự hào vì biết uống trà từ hàng nghìn năm nay. Thuở xưa, bậc quyền quý pha tra mời khách, còn với dân du mục trên thảo nguyên thì dùng sữa dê pha với trà uống như một vị thuốc... ở Trung Quốc còn có trà Vũ Di, loại trà mọc trên núi tuyết cao, hiểm trở, người thường không leo lên được nên đã nghĩ ra cách huấn luyện cho khỉ thu hái mang xuống núi, rồi chế biến ra thứ trà sánh như sữa. Nghe kể trà ấy uống vào làm người ta quên đi nỗi giận buồn, thông đạt tới diệu linh...
Còn ở Việt Nam ta có Phong trà (phong cách uống trà). Cách ẩm trà của người Việt không bị lai tạp với các “nền văn minh” trà khác trên thế giới. Bởi các cụ cho rằng ẩm trà là một nghệ thuật, mà nghệ thuật thì phi công thức. Vì lẽ ấy và các bậc tiền nhân thường có cách uống trà riêng, trước phải uống bằng... khứu giác rồi mới đến vị giác. Tức là trước khi uống thường đưa qua mũi để tận hưởng hương vị trà, sau mới hạ dần xuống miệng, môi nhấp ngụm nhỏ, thấy chát đắng, chân răng cảm nhận như chặt lại, miệng chép liền mấy cái đã thấy dịch vị trong miệng tiết ra có vị ngọt dịu, lòng sảng khoái luận về trà. Thường khi ấy giới thi nhân hay nhắc đến cách chế trà của cụ Phạm Hổ, Nguyễn Tuân mà chép miệng thán phục về cách uống trà độc đáo, không giống ai. Nhưng đó là nghệ thuật ẩm trà mà con cháu hậu bối bây giờ khó mà theo được.