Chè thái nguyên niềm tự hào xuất khẩu
- Chuyên mục: Chè Thái Nguyên
- Viết bởi Admin
Tại hội thảo, các đại biểu đã tập trung thảo luận những vấn đề chính xung quanh việc phát triển Chè Thái Nguyên Thái Nguyên như: đánh giá vị trí Chè Thái Nguyên Thái Nguyên nói riêng và Chè Thái Nguyên Việt Nam nói chung đối với thị trường Chè Thái Nguyên thế giới; hướng phát triển Chè Thái Nguyên Thái Nguyên; phương thức sản xuất, chế biến và tổ chức sản xuất chế biến Chè Thái Nguyên Thái Nguyên; hình thức, quy mô, cơ cấu sản phẩm, ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ, xây dựng, quản lý, phát triển thương hiệu Chè Thái Nguyên Thái Nguyên; yêu cầu của thị trường nước ngoài hiện nay đối với sản phẩm Chè Thái Nguyên Thái Nguyên...
Tuy nhiên, việc chế biến Chè Thái Nguyên ở Thái Nguyên chủ yếu vẫn theo phương pháp thủ công, truyền thống. Tiêu thụ Chè Thái Nguyên chủ yếu là thị trường nội địa, lượng Chè Thái Nguyên xuất khẩu còn chiếm tỷ lệ thấp, giá trị xuất khẩu không cao, thị trường xuất khẩu chủ yếu sang các nước Trung Quốc, Anh, Pakistan, Nga, Đài Loan...
Thái Nguyên cũng đang triển khai thực hiện quy hoạch vùng sản xuất Chè Thái Nguyên an toàn trên địa bàn toàn tỉnh, xây dụng những vùng sản xuất Chè Thái Nguyên nguyên liệu an toàn theo hướng hữu cơ, hạn chế sử dụng phân bón vô cơ, hóa chất trừ sâu.
Tại Hội thảo, các đại biểu đã được nghe giới thiệu về tình hình sản xuất, chế biến Chè Thái Nguyên ở Thái Nguyên. Toàn tỉnh này hiện có gần 18.000 ha Chè Thái Nguyên, năng suất Chè Thái Nguyên búp tươi bình quân đạt gần 100 tạ/ha, sản lượng gần 200.000 tấn.
Tuy năng suất Chè Thái Nguyên Việt Nam đã đạt mức bình quân của thế giới, nhưng giá bán thấp chỉ bằng 60 -70% thế giới, nguyên nhân chủ yếu do sản phẩm Chè Thái Nguyên Việt Nam còn nghèo nàn về chủng loại, chất lượng và mẫu mã chưa hấp dẫn nên sức cạnh tranh thấp, giữa chế biến và sản xuất nguyên liệu chưa gắn kết với nhau, đặc biệt nguyên liệu búp Chè Thái Nguyên chưa đáp ứng tiêu chuẩn an toàn cho chế biến Chè Thái Nguyên chất lượng cao.
Trong số các thị trường xuất khẩu chè của Việt Nam trong quý 1, Nga đã vượt qua Pakistantrở thành thị trường tiêu thụ lớn nhất, tăng 85,99% về lượng. Tính chung 3 tháng đầu năm, Việt Nam đã xuất 3,4 nghìn tấn chè sang thị trường Nga với trị giá hơn 7 triệu USD. Chiếm 13% lượng chè xuất khẩu của cả nước, Ấn Độ đứng thứ hai với lượng xuất trong tháng 3 là 1,1 nghìn tấn, trị giá 1,4 triệu USD, tăng 69% về trị giá và 33% về lượng so với tháng đầu năm 2010.
Trong tháng 2/2010 xuất khẩu chè sang Tiểu Vương Quốc ả rập Thống nhất chỉ đạt 354 tấn chè các loại, trị giá 704,2 nghìn USD, giảm 17,59% về trị giá và 20,81% về lượng so với tháng 1/2010. Nhưng nếu so sánh 2 tháng đầu năm 2010 với cùng kỳ năm 2009 thì xuất khẩu sang thị trường này tăng mạnh cả về lượng lẫn trị giá, với 801 tấn chè các loại, trị giá 1,55 triệu USD, tăng 4.527,64% về trị giá và 2.706,71% về lượng so với cùng kỳ năm ngoái.
Nhờ xuất khẩu chè tăng cả về lượng lẫn giá, nên giá các loại chè tại thị trường trong nước tại các điểm thu mua thời gian vừa qua khá vững vàng. Tại Bảo Lộc (Lâm Đồng), giá chè búp tươi cành và giá chè búp tươi hạt lần lượt là 4.000 đồng/kg và 3.200 đồng/kg. Giá các loại chè khác ổn định: chè hương bán lẻ 62.000 đồng/kg, giá chè xanh bán buôn, bán lẻ từ 35.000-40.000 đồng/kg.
Tại thành phố Thái Nguyên, giá bán lẻ chè cành chất lượng cao khoảng 180.000 đồng/kg; chè xanh búp khô đã tăng trở lại lên mức giá 90.000 đồng/kg.
Lượng chè xuất khẩu cả năm 2009 ước đạt 133 nghìn tấn, với kim ngạch 178 triệu USD, tăng 27,3% về lượng và 21,27% về giá trị so với năm 2008. Mặc dù kim ngạch xuất khẩu tăng 30 triệu USD so với năm 2008, nhưng tăng chủ yếu do lượng xuất khẩu tăng, chứ không phải do cải thiện về giá. Ước tính hiện nay có khoảng 2-3 triệu người Việt Nam có nguồn thu nhập chính phụ thuộc một phần hoặc hoàn toàn vào cây chè, đặc biệt là tại các tỉnh miền núi phía Bắc, chiếm đến 70% sản lượng chè cả nước.
Tuy nhiên so với các sản phẩm nông nghiệp khác như gạo, cà phê, hạt tiêu, hạt điều khả năng sinh lợi nhuận của chè vẫn còn kém xa so với tiềm năng. Giá chè xuất khẩu bình quân của cả nước trong năm 2009 chỉ được 1,1 USD/kg, trong khi giá bình quân của thế giới vào khoảng 2,2 USD/kg. Một trong những nguyên nhân khiến giá xuất khẩu chè của Việt Namthấp như vậy là vì hầu hết các sản phẩm chè còn thiếu uy tín về chất lượng, nhất là vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm.
Chủ động mở rộng thị trường thế giới
Trước thực trạng đó, một số doanh nghiệp đang nỗ lực chuyên chú vào chất lượng để tìm cách nâng cao giá trị cho ngành chè như Phú Bền, An Phát, Tân Cương...
Công ty chè Phú Bền đang có nhiều nỗ lực trong việc tạo dựng được uy tín đáp ứng các cam kết, tích cực chủ động tham gia thực hiện giảm dư lượng hoá chất trong sản phẩm, các nhà máy đều được chứng nhận vệ sinh an toàn thực phẩm. Nhờ đó, chè Phú Bền đã làm hài lòng nhiều bạn hàng khó tính và có mặt ở hơn 10 nước trên thế giới như: Mỹ, Úc, Nga, Nhật Bản, Trung Đông, Pakistan. Bởi vậy giá xuất khẩu của Phú Bền luôn cao hơn nhiều so với giá bán của các doanh nghiệp khác ở Việt Nam, giá xuất bình quân năm 2009 đạt 2 USD/kg.
Nhiều thương nhân cho biết, các khách hàng đang ngày càng ưa chuộng chè Việt Nam. Hiện các thị trường xuất khẩu chủ lực của nước ta là Nga, Ấn Độ, Pakistan... Ngành chè đang đặt mục tiêu sẽ mở rộng thị trường sang Syria, Jordan và UAE trong năm nay.
Chè đen hiện chiếm 80% tổng khối lượng chè xuất khẩu của Việt Nam, đối với loại sản phẩm này thì Đài Loan là thị trường lớn nhất, chiếm 17%, tiếp đến là Nga, Irắc, Pakistan, Đức và Singapore.
Việt Nam hiện là nước sản xuất và xuất khẩu chè lớn thứ 5 thế giới. Với những thành quả đã đạt được trong năm 2009 và sự tăng trưởng mạnh mẽ của xuất khẩu chè trong 3 tháng đầu năm, nhiều chuyên gia cho rằng mục tiêu trước kia từng đề ra đến năm 2010 đạt kim ngạch xuất khẩu chè 200 triệu USD là có thể khả thi.
Để biết thông tin chi tiết về sản lượng xuất khẩu.quý khách vui lòng truy cập website : http://chethaixuatkhau.com/